Chào các em! Hôm nay chúng ta sẽ cùng giải một bài toán thực tế rất hay trong sách giáo khoa Toán 10 tập 1, thuộc bộ sách Cánh Diều. Bài 4 trang 59 là sự kết hợp thú vị giữa hình học (định lý Pythagore) và đại số (giải phương trình). Bài toán này sẽ giúp các em củng cố kỹ năng mô hình hóa một tình huống thực tế thành một bài toán toán học.
Một người đứng ở điểm A trên bờ sông rộng 300 m, chèo thuyền đến vị trí D, sau đó chạy bộ đến vị trí B cách C một khoảng 800 m như Hình 34.
Vận tốc chèo thuyền là 6 km/h, vận tốc chạy bộ là 10 km/h và giả sử vận tốc dòng nước không đáng kể. Tính khoảng cách từ vị trí C đến D, biết tổng thời gian người đó chèo thuyền và chạy bộ từ A đến B là 7,2 phút.
Để giải quyết bài toán này, chúng ta sẽ thực hiện theo các bước sau:
Đổi đơn vị: Chuyển đổi tất cả các đơn vị về cùng một hệ (ví dụ: km và giờ) để dễ tính toán.
Lập phương trình:
Gọi ẩn số là khoảng cách cần tìm (CD = x).
Biểu diễn quãng đường di chuyển (AD, DB) và thời gian tương ứng (t1,t2) theo x.
Lập phương trình dựa trên tổng thời gian đã cho.
Giải phương trình: Giải phương trình vừa lập để tìm giá trị của x.
Đổi: 300 m = 0,3 km; 800 m = 0,8 km; 7,2 phút = 0,12 giờ.
Gọi độ dài khoảng cách từ vị trí C đến D là x (km, x > 0).
Khi đó ta có: AC = 0,3 km; CD = x km; BC = 0,8 km; DB = BC – CD = 0,8 – x (km).
Lại có tam giác ACD vuông tại C, áp dụng định lý Pythagore ta có:
AD2 = AC2 + CD2 = (0,3)2 + x2 = 0,09 + x2
Vì vậy, khoảng cách từ vị trí A đến vị trí D là km, mà vận tốc chèo thuyền là 6 km/h và vận tốc dòng nước không đáng kể nên thời gian người đó chèo thuyền từ vị trí A đến vị trí D là:
(giờ).
Quãng đường từ vị trí D đến vị trí B là 0,8 – x (km) và vận tốc chạy bộ là 10 km/h nên thời gian người đó chạy bộ từ vị trí D đến vị trí B là:
(giờ).
Tổng thời gian người đó chèo thuyền là t1 + t2 = t = 0,12 (giờ).
(*)
Bình phương cả hai vế của (*) ta được: 25.(0,09 + x2) = (3x + 1,2)2
⇔ 2,25 + 25x2 = 9x2 + 7,2x + 1,44
⇔ 16x2 – 7,2x + 0,81 = 0
⇔ x = 0,225 (thỏa điều kiện x > 0)
⇒ x = 0,225 km = 225 m.
Vậy khoảng cách từ vị trí C đến D là 225 m.
Bài toán này là một ví dụ tuyệt vời về cách áp dụng kiến thức toán học vào việc giải quyết một vấn đề thực tế. Bằng cách mô hình hóa tình huống thành một phương trình, chúng ta có thể tìm ra lời giải một cách chính xác. Kỹ năng này không chỉ quan trọng trong toán học mà còn trong nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống.
• Xem thêm:
Bài 1 trang 58 Toán 10 Tập 1 SGK Cánh Diều: Giải các phương trình sau:...
Bài 2 trang 59 Toán 10 Tập 1 SGK Cánh Diều: Giải các phương trình sau:...